Ngành gia dụng tại thị trường Việt Nam – Tiềm năng nhưng cũng đầy thách thức
Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2021
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tháng 4/2021 diễn ra trong điều kiện thời tiết thuận lợi cho cây trồng, vật nuôi sinh trưởng và phát triển. Các địa phương phía Bắc tập trung chăm sóc cây trồng vụ đông xuân; tại các địa phương phía Nam tập trung thu hoạch lúa, hoa màu vụ đông xuân và gieo trồng lúa hè thu. Chăn nuôi gia cầm phát triển tốt, chăn nuôi lợn đang đà hồi phục. Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản, lâm sản, thủy sản được khơi thông, mở rộng.
a) Nông nghiệp
Tính đến ngày 15/4, cả nước gieo cấy được 3.001,1 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 99,2% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc gieo cấy 1.082,6 nghìn ha, bằng 98,6%; các địa phương phía Nam gieo cấy 1.918,5 nghìn ha, bằng 99,6%. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long diện tích gieo cấy lúa đông xuân năm nay đạt 1.519,7 nghìn ha, giảm 26,7 nghìn ha so với vụ đông xuân năm trước. Các địa phương phía Nam đã thu hoạch được 1.577,4 nghìn ha lúa đông xuân, chiếm 82,2% diện tích gieo trồng và bằng 96,7% cùng kỳ năm trước. Trong đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch được 1.396,5 nghìn ha, chiếm 91,9% diện tích gieo trồng và bằng 96,9% cùng kỳ năm 2020.
Tính đến 15/4, các địa phương phía Nam gieo cấy được 300 nghìn ha lúa hè thu, bằng 98% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 293 nghìn ha, bằng 99,8%.
Tính đến giữa tháng Tư, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 382 nghìn ha ngô, bằng 101,8% cùng kỳ năm trước; 59,7 nghìn ha khoai lang, bằng 95,1%; 14,1 nghìn ha đậu tương, bằng 90,4%; 115,5 nghìn ha lạc, bằng 97%; 596,8 nghìn ha rau đậu, bằng 103,0%.
Hiện nay, dịch lở mồm long móng, đặc biệt là dịch viêm da nổi cụcở trâu bò đang diễn biến phức tạp tại một số địa phương vì khả năng lây lan bệnh nhanh. Ước tính tháng Tư, tổng số bò tăng 1% so với cùng thời điểm năm 2020; tổng số lợn tăng 11,1%; tổng số trâu giảm 2,4%; tổng số gia cầm tăng 7,4%. Tính đến ngày 23/4/2021, cả nước không còn dịch tai xanh; dịch cúm gia cầm còn ở Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Hà Tĩnh, Quảng Nam; dịch lở mồm long móng còn ở Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Trị, Đắk Lắk, Phú Yên, Quảng Ngãi; dịch tả lợn châu Phi còn ở 22 địa phương và dịch viêm da nổi cục còn ở 21 địa phương chưa qua 21 ngày.
b) Lâm nghiệp
Tháng 4 năm 2021, diện tích rừng trồng mới tập trung của cả nước ước tính đạt 28,8 nghìn ha, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước đạt 62 nghìn ha, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 35 triệu cây, tăng 2,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 4.159,9 nghìn m3, tăng 4,9%; sản lượng củi khai thác đạt 6 triệu ste, bằng cùng kỳ năm trước.
Trong tháng Tư, cả nước có 118,7 ha rừng bị thiệt hại[1], giảm 17,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm diện tích rừng bị cháy là 18,9 ha, giảm 78,2%; diện tích rừng bị chặt phá là 99,8 ha, tăng 72,5%. Tính chung 4 tháng đầu năm, diện tích rừng bị thiệt hại là 483,6 ha, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm diện tích rừng bị cháy là 134 ha, giảm 21,2%; diện tích rừng bị chặt phá là 349,5 ha, tăng 49%.
c) Thủy sản
Sản lượng thủy sản tháng Tư ước tính đạt 687,2 nghìn tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 329,6 nghìn tấn, tăng 1,9%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 357,7 nghìn tấn, tăng 2,2%. Tính chung 4 tháng đầu năm, sản lượng thủy sản ước tính đạt 2.484,9 nghìn tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 1.269,9 nghìn tấn, tăng 2,8%; sản lượng khai thác đạt 1.215,1 nghìn tấn, tăng 1,4% (sản lượng khai thác biển đạt 1.160,4 nghìn tấn, tăng 1,4%).
2. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp tháng 4/2021 ước tính tăng cao 24,1% so với cùng kỳ năm trước khi dịch Covid-19 được kiểm soát tốt, đồng thời các Hiệp định thương mại tự do phát huy hiệu quả nên hoạt động sản xuất kinh doanh sôi động trở lại. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 12,7%.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 4/2021 ước tính tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 24,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 3,8% và tăng 1,8%; ngành chế biến, chế tạo tăng 0,5% và tăng 29,1%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 2,6% và tăng 16,4%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,4% và tăng 11,1%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, IIP ước tính tăng 10% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 12,7% (cùng kỳ năm trước tăng 9,7%), đóng góp 10,2 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,6% (cùng kỳ năm trước giảm 6,5%), đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,5% (cùng kỳ năm trước giảm 0,3%), đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5,7% (cùng kỳ năm trước giảm 6,8%), làm giảm 0,9 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[2]
Doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong tháng Tư năm 2021 tăng cả về số lượng và vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2020, tăng cao nhất trong các năm 2017-2021[3] và tăng ở tất cả các ngành kinh tế; vốn đăng ký tăng 41%. Cho thấy sau thành công thực hiện mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế – xã hội”, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp vào đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng, của Chính phủ trong nhiệm kỳ 2021-2025 tăng lên. Đây là những tín hiệu tích cực về triển vọng phát triển doanh nghiệp trong thời gian tới.
Trong tháng 4/2021, cả nước có gần 14,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 179,9 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký 94,6 nghìn người, tăng 33,1% về số doanh nghiệp, tăng 59,1% về vốn đăng ký và tăng 30% về số lao động so với tháng 03/2021. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 12,1 tỷ đồng, tăng 19,6% so với tháng trước và tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng, cả nước còn có 5.745 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 26,8% so với tháng trước và tăng 50,8% so với cùng kỳ năm trước; 4.598 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 107,8% và tăng 11,6%; 5.608 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 62,2% và tăng 158,9%; 1.541 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 4,2% và tăng 57,2%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, cả nước có gần 44,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 627,7 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 340,3 nghìn lao động, tăng 17,5% về số doanh nghiệp, tăng 41% về vốn đăng ký và tăng 7,8% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 4 tháng đạt 14,2 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 792,9 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 14,9 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 4 tháng đầu năm 2021 là 1.420,6 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có gần 19,3 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 4 tháng đầu năm 2021 lên 63,4 nghìn doanh nghiệp, trung bình mỗi tháng có gần 15,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Cũng trong 4 tháng đầu năm nay, có 51,5 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 23,3% so với cùng kỳ năm 2020, bao gồm: hơn 28,3 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 24,9% so với cùng kỳ năm trước; 16,4 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 17,5%; 6,7 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 32,2%. Trung bình mỗi tháng có gần 12,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
4. Đầu tư
Các Bộ, ngành và địa phương tập trung đẩy mạnh thực hiện vốn từ nguồn ngân sách Nhà nước trong bối cảnh dịch Covid-19 được kiểm soát tốt tại Việt Nam. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Tư ước tính đạt 6,6% so với kế hoạch năm 2021. So với cùng kỳ năm trước, tốc độ tăng vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Tư và 4 tháng năm nay đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2017-2021.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 4/2021 ước tính đạt 30,4 nghìn tỷ đồng, tăng 23,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 98,7 nghìn tỷ đồng, bằng 21,5% kế hoạch năm và tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 bằng 16,6% và tăng 14,5%), gồm có: Vốn Trung ương quản lý đạt 15,1 nghìn tỷ đồng, bằng 19,6% kế hoạch năm và tăng 25,5%; vốn địa phương quản lý đạt 83,6 nghìn tỷ đồng, bằng 21,9% kế hoạch năm và tăng 14,8%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/4/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 12,25 tỷ USD, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 451 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 8,46 tỷ USD, giảm 54,2% về số dự án và tăng 24,7% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 263 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 2,75 tỷ USD, giảm 10,6%; có 1.151 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn 1,05 tỷ USD, giảm 57,8%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 290 lượt góp vốn làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 423,6 triệu USD và 861 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 623,5 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 4 tháng đầu năm ước tính đạt 5,5 tỷ USD, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 4 tháng đầu năm có 18 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đầu tư của phía Việt Nam là 142,8 triệu USD, gấp 2,7 lần so với cùng kỳ; có 9 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm đạt 403,2 triệu USD, gấp 25,5 lần so với cùng kỳ. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) 4 tháng đạt 545,9 triệu USD, gấp 7,9 lần so với cùng kỳ.
5. Hoạt động thương mại, vận tải và du lịch[4]
Hoạt động thương mại trong nước và vận tải tháng 4 năm 2021 tăng so với cùng kỳ năm trước do tháng 4/2020 thực hiện giãn cách toàn xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ nên hoạt động mua sắm hàng hóa, chi tiêu của người tiêu dùng giảm mạnh, nhiều cơ sở lưu trú, ăn uống, lữ hành phải tạm đóng cửa và nhu cầu vận tải giảm mạnh. Hoạt động xuất, nhập khẩu 4 tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ năm trước đạt tốc độ tăng cao nhất trong vòng 10 năm qua. Riêng khách quốc tế đến nước ta tháng 4/2021 vẫn giảm 25,8% so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, chưa mở cửa du lịch quốc tế nên lượng khách đến chủ yếu là chuyên gia, lao động kỹ thuật nước ngoài làm việc tại các dự án ở Việt Nam và lái xe vận chuyển hàng hóa tại các cửa khẩu đường bộ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tư ước tính đạt 409,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 30,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 1.695,6 nghìn tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 2,8%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,03% (cùng kỳ năm 2020 giảm 7,76%).
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thực hiện tháng 3/2021 đạt 29.654 triệu USD, cao hơn 1.054 triệu USD so với số ước tính. Ước tính tháng 4/2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 25,5 tỷ USD, giảm 14% so với tháng trước và tăng 44,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 103,9 tỷ USD, tăng 28,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 25,76 tỷ USD, tăng 12,8%, chiếm 24,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 78,14 tỷ USD, tăng 34,4%, chiếm 75,2%. Trong 4 tháng có 19 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 84,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2021, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 57,58 tỷ USD, tăng 33% so với cùng kỳ năm trước. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp ước tính đạt 36,6 tỷ USD, tăng 27,5%. Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 7,33 tỷ USD, tăng 8,8%. Nhóm hàng thủy sản đạt 2,39 tỷ USD, tăng 6,1%.
Về thị trường xuất khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm 2021, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 30,3 tỷ USD, tăng 50,1% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Trung Quốc đạt 16,8 tỷ USD, tăng 32,4%; thị trường EU đạt 12,6 tỷ USD, tăng 18,1%; thị trường ASEAN đạt 8,8 tỷ USD, tăng 13,3%; Hàn Quốc đạt 6,9 tỷ USD, tăng 12,1%; Nhật Bản đạt 6,5 tỷ USD, tăng 1,5%.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa thực hiện tháng 3/2021 đạt 28.457 triệu USD, cao hơn 257 triệu USD so với số ước tính. Ước tính tháng 4/2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 27 tỷ USD, giảm 5,1% so với tháng trước và tăng 43,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 102,61 tỷ USD, tăng 30,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 35,69 tỷ USD, tăng 24,8% khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 66,92 tỷ USD, tăng 34,2%. Trong 4 tháng đầu năm 2021 có 19 mặt hàng nhập khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, chiếm 77,4% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Về cơ cấu nhập khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm 2021, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 96,31 tỷ USD, tăng 31,4% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 93,9% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa. Nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 6,3 tỷ USD, tăng 22,5% và chiếm 6,1%.
Về thị trường nhập khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm nay, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 33,1 tỷ USD, tăng 47,8% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là Hàn Quốc đạt 16,9 tỷ USD, tăng 16,9%; thị trường ASEAN đạt 14,1 tỷ USD, tăng 48,2%; Nhật Bản đạt 7,2 tỷ USD, tăng 10,5%; thị trường EU đạt 5,3 tỷ USD, tăng 16,6%; Hoa Kỳ đạt 5,1 tỷ USD, tăng 7,9%.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng 3/2021 xuất siêu 1,2 tỷ USD[5]; quý I xuất siêu 2,79 tỷ USD; tháng Tư ước tính nhập siêu 1,5 tỷ USD. Ước tính 4 tháng đầu năm 2021 xuất siêu 1,29 tỷ USD[6], trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 9,92 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 11,21 tỷ USD.
Vận tải hành khách tháng 4/2021 ước tính đạt 294,5 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 4,9% so với tháng trước và luân chuyển 13,5 tỷ lượt khách.km, tăng 11,9%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, vận tải hành khách đạt 1.263,6 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 27,5%) và luân chuyển 54,8 tỷ lượt khách.km, giảm 5,8% (cùng kỳ năm trước giảm 30,6%). Vận tải hàng hóa tháng 4/2021 ước tính đạt 153,7 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 6,1% so với tháng trước và luân chuyển 30,3 tỷ tấn.km, tăng 5,2%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, vận tải hàng hóa đạt 617,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 7,2%) và luân chuyển 116,9 tỷ tấn.km, tăng 12,1% (cùng kỳ năm trước giảm 7,8%).
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng 4/2021 ước tính đạt 19,5 nghìn lượt người, tăng 0,3% so với tháng trước và giảm 25,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 67,6 nghìn lượt người, giảm 98,2% so với cùng kỳ năm trước.
6. Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Giá lương thực, thực phẩm giảm do nguồn cung dồi dào; giá điện, nước sinh hoạt giảm theo nhu cầu tiêu dùng là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2021 giảm 0,04% so với tháng trước, tăng 1,27% so với tháng 12/2020 và tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 4 tháng đầu năm 2021, CPI tăng 0,89% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016[7]; lạm phát cơ bản 4 tháng tăng 0,74%.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2021 giảm 0,04% so với tháng trước. CPI bình quân 4 tháng đầu năm 2021 tăng 0,89% so với bình quân cùng kỳ năm 2020; CPI tháng 4/2021 tăng 1,27% so với tháng 12/2020 và tăng 2,70% so với cùng kỳ năm trước.
Lạm phát cơ bản tháng 4/2021 tăng 0,07% so với tháng trước và tăng 0,95% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 4 tháng đầu năm nay tăng 0,74% so với bình quân cùng kỳ năm 2020.
Giá vàng trong nước biến động ngược chiều với giá vàng thế giới. Chỉ số giá vàng tháng 4/2021 giảm 1,9% so với tháng trước; giảm 2,51% so với tháng 12/2020 và tăng 13,84% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 4/2021 tăng 0,29% so với tháng trước; tăng 0,18% so với tháng 12/2020 và giảm 1,35% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất
Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất tháng 4/2021 tăng 0,37% so với tháng trước và tăng 4,47% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,89% và tăng 7,82%; dùng cho sản xuất công nghiệp tăng 0,32% và tăng 4,49%; dùng cho xây dựng tăng 0,18% và tăng 2,06%. Tính chung 4 tháng đầu năm nay, chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất tăng 4,64% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 6,77%; dùng cho sản xuất công nghiệp tăng 4,95%; dùng cho xây dựng tăng 1,95%.
7. Một số tình hình xã hội
Đời sống dân cư trong tháng Tư và 4 tháng đầu năm nay nhìn chung được ổn định, là kết quả của các chính sách an sinh xã hội và giải pháp hỗ trợ các hộ cận nghèo của Chính Phủ. Tháng 4/2021 là tháng thứ 10 liên tiếp không phát sinh thiếu đói trên phạm vi cả nước.
Dịch Covid-19 trên thế giới vẫn diễn biến phức tạp[8]. 5 quốc gia có số ca mắc Covid-19 nhiều nhất thế giới là Mỹ, Ấn Độ, Bra-xin, Pháp và Nga. Tại Việt Nam, tính đến 6h00 ngày 28/4/2021, Việt Nam có 2.857 trường hợp mắc, 2.516 trường hợp đã được chữa khỏi (35 trường hợp tử vong).
Tai nạn giao thông trên địa bàn cả nước trong 4 tháng đầu năm 2021 đã xảy ra 4.220 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 2.722 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 1.498 vụ va chạm giao thông, làm 2.165 người chết, 1.461 người bị thương và 1.652 người bị thương nhẹ. Bình quân 1 ngày trong 4 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 35 vụ tai nạn giao thông, gồm 23 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 12 vụ va chạm giao thông, làm 18 người chết, 12 người bị thương và 14 người bị thương nhẹ.
Thiên tai xảy ra trong 4 tháng đầu năm 2021 làm 7 người chết và mất tích, 7 người bị thương; 1.246 ngôi nhà bị sập đổ và hư hỏng; 4,1 nghìn con gia súc và gia cầm bị chết; 711,2 ha lúa và 659,3 ha hoa màu bị hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính 86,4 tỷ đồng, giảm 96,9%.
Trong tháng 4/2021[9], cả nước xảy ra 162 vụ cháy, nổ, làm 13 người chết và 9 người bị thương, thiệt hại ước tính 76,7 tỷ đồng. Tính chung 4 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 788 vụ cháy, nổ, làm 34 người chết và 48 người bị thương, thiệt hại ước tính 237,9 tỷ đồng./.
[1] Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
[2] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Báo cáo nhận ngày 27/4/2021).
[3] Tốc độ tăng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 4 tháng đầu năm các năm 2017-2021 lần lượt là: tăng 14%; tăng 4,3%; tăng 4,9%; giảm 13,2%; tăng 17,5%.
[4] Số liệu tháng 4/2021 do Tổ liên ngành gồm Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thống kê họp ước tính căn cứ trên số liệu kim ngạch xuất, nhập khẩu tính đến ngày 26/4/2021 của Tổng cục Hải quan kết hợp với thông tin thị trường, tỷ trọng và xu hướng xuất, nhập khẩu các mặt hàng. Tổng cục Thống kê nhận được và cập nhật báo cáo vào ngày 28/4/2021.
[5] Tháng Ba ước tính xuất siêu 400 triệu USD.
[6] Trong đó, 4 tháng đầu năm 2021 xuất siêu sang EU đạt 7,3 tỷ USD, tăng 19,3% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 16,3 tỷ USD, tăng 68,2%; nhập siêu từ Hàn Quốc 10 tỷ USD, tăng 20,5%; nhập siêu từ ASEAN 5,4 tỷ USD, tăng 194,1%.
[7] Tốc độ tăng CPI bình quân 4 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước giai đoạn 2016-2021 lần lượt là: tăng 1,41%; tăng 4,8%; tăng 2,8%; tăng 2,71%; tăng 4,9%; tăng 0,89%.
[8] Tính đến 6h00 ngày 28/4/2021 trên thế giới có 149.289,9 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (3.147,2 nghìn trường hợp tử vong).
[9] Theo báo cáo nhanh từ Bộ Công an.
Tham khảo thêm: BÁO CÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI THÁNG 4 VÀ 4 THÁNG ĐẦU NĂM 2021
Xem thêm: Tình hình sản xuất nông nghiệp – lâm nghiệp – thủy sản tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2021 như thế nào?